Ngày đăng: 19-11-2024     Tác giả: Nguyễn Văn Toàn     Chuyên mục: TIN TỨC - SỰ KIỆN

Kỷ niệm 84 năm Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940 - 23/11/2024)

Nhân dân Nam Kỳ xứng đáng lá cờ đầu trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Từ khi có Đảng lãnh đạo, cuộc chiến đấu chống ngoại xâm dể giành độc lập dân tộc của Nhân dân Nam Kỳ càng sôi nổi và quyết liệt hơn.

Nhân dân có tinh thần chống ngoại xâm cao độ

Nam Kỳ là tên gọi được Hoàng đế Minh Mạng nhà Nguyễn đặt cho 6 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên vào năm 1832. Tính đến năm 1944, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Nam Kỳ gồm 21 tỉnh gồm: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Tân Bình, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Nam Kỳ có Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định, có Nguyễn Trung Trực với câu nói nổi tiếng “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”...

Sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Ngô Gia Tự được cử là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Ngô Gia Tự, phong trào cách mạng ở Xứ ủy Nam Kỳ đã phát triển mạnh mẽ.

Nhân dịp Ngày Quốc tế Lao động 1/5 năm 1930, hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng, khoảng 1.000 nông dân quận Đức Hòa (Chợ Lớn) đã biểu tình đến quận lỵ đòi giảm thuế, bỏ sưu. Bọn thực dân Pháp đàn áp dã man làm 9 người chết, 50 người khác bị thương. Nhưng đoàn biểu tình vẫn không lùi bước, buộc địch phải nhượng bộ, nhận bản yêu sách, giảm thuế, giảm sưu.

Tại Sa Đéc và Long Xuyên, các cuộc biểu tình của nông dân quận Cao Lãnh và quận Chợ Mới đều giành được thắng lợi. Hai tên chủ quận Chợ Mới và Cao Lãnh buộc phải giải quyết yêu sách của quần chúng: hoãn thuế 2 tháng, thả những nông dân bị bắt vì thiếu thuế.

Đặc biệt, cuộc biểu tình của công nhân và nông dân Gia Định đã lôi cuốn hàng nghìn người tham gia với một khí thế rất hùng dũng. Tuy nhiên. bọn thực dân đã đàn áp cuộc biểu tình một cách dã man làm hơn 10 người chết và bị thương, hàng chục người bị bắt.

Trong tháng 5/1930, theo thống kê, Nam Kỳ có 12 cuộc đấu tranh nổ ra.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 6 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939 tại Bà Ðiểm (Hóc Môn - Gia Ðịnh), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, cùng các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn đã ra Nghị quyết lịch sử, khẳng định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc”[1].

 

Tượng đài khởi nghĩa Nam Kỳ đặt trước Bảo tàng huyện Hóc Môn (TP. Hồ Chí Minh). (Nguồn: https://cand.com.vn/)

 

Minh chứng cho lòng yêu nước quả cảm vô song

Ngày 22/6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Ngày 23/9/1940, phát xít Nhật vượt qua biên giới Việt-Trung vào nước ta. Sau khi vào Đông Dương, Nhật liên tục ép Pháp nhượng bộ, ký kết các hiệp ước có lợi cho Nhật trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, văn hóa tư tưởng, trên cơ sở đó từng bước chi phối Đông Dương. Dân ta do đó lâm vào tình thế “một cổ đôi tròng” nên đời sống hết sức cơ cực. Tháng 10/1940 lại nổ ra chiến tranh giữa Pháp với Thái Lan.

Nhân dịp tinh thần phản chiến của Nhân dân và binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp - nhất là số binh lính đang bị tập trung ở Sài Gòn để chuẩn bị sang chiến trường Pháp - Thái đang lên cao, ngày 21/11/1940, Xứ ủy Nam Kỳ đã ra thông báo cho các cấp bộ đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940.

Đồng chí Phan Ðăng Lưu không về kịp nên không thực hiện được lệnh hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng.

Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ở 20/21 tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ, kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23/11 đến ngày 31/12/1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông... của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập tịch thu ruộng đất của địa chủ và phản động chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng... Trong bão táp cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu được giương cao.

Thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man cuộc khởi nghĩa. Rất nhiều đồng bào, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đã bị địch bắt, tra tấn, tù đày, giết chóc vô cùng tàn bạo. Theo các báo cáo của chính quyền thuộc địa, tính cho đến hết ngày 31/1/1941, Pháp đã bắt 7.048 người. Hàng ngàn người bị xử tử, bị đày ra Côn Đảo, đi các trại tập trung Tà Lài, Bà Rá. Lực lượng nghĩa quân còn lại rút về Truông Mít (Thủ Dầu Một), Bình Hoà, Bình Thành trong vùng Đồng Tháp và rừng U Minh để củng cố lực lượng.

Ngày 18/1/1940, trước Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra 10 tháng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị bắt cùng với hai đồng chí của mình. Toà án binh Sài Gòn của bọn thực dân kết án tử hình đồng chí. Sáng sớm ngày 28/8/1941, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các nhà lãnh đạo của Đảng và Khởi nghĩa Nam Kỳ như đồng chí Hà Huy Tập (Tổng Bí thư của Đảng từ năm 1936-1938), Phan Đăng Lưu (Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng), Võ Văn Tần (Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ), Nguyễn Thị Minh Khai (Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn), Nguyễn Hữu Tiến (Uỷ viên Xứ ủy Nam Kỳ phụ trách công tác Tuyên huấn),… hiên ngang bước ra pháp trường, nêu cao khí tiết của người cộng sản trước nòng súng của bọn thực dân.

Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ do chưa đủ điều kiện khách quan, chủ quan chín muồi nên chưa thành công nhưng đã để lại truyền thống bất khuất, kiên cường của lòng yêu nước quả cảm vô song.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã xóa bỏ việc phân chia Bắc-Trung-Nam Kỳ của Pháp, tuyên bố nước Việt Nam là một quốc gia thống nhất. Từ đó, cái tên Nam Bộ ra đời thay cho danh xưng Nam Kỳ.

Ngày 14/4/1948, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 163/SL tặng Huân chương Quân công hạng nhất cho Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ, nhằm tôn vinh ý nghĩa to lớn của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ đối với lịch sử cách mạng Việt Nam.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 536