Ngày đăng: 28-02-2025     Tác giả: Khánh Bình     Chuyên mục: TIN TỨC - SỰ KIỆN

Trong những năm qua, Tỉnh ủy đã chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh tập trung đưa ra nhiều biện pháp triển khai thực hiện Đề án đạt những kết quả bước đầu khá tốt. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 25%, đạt 124,25% so với năm 2020 là 20,12%, đạt 100% so với chỉ tiêu Đề án số 04-ĐA/TU của Tỉnh ủy (đến năm 2025 là 25%). Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đến năm 2025 ước đạt 39%, đạt 111,4% chỉ tiêu đề ra đến năm 2025 là 35%. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng của tỉnh giai đoạn 2021 – 2025 ước đạt 45%, đạt 112,5% so với chỉ tiêu Kế hoạch đề ra là 40%. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng của tỉnh đạt 47%, đạt 117,5% so với chỉ tiêu Kế hoạch đề ra là 40%. Giá trị sản phẩm và dịch vụ KH&CN trên thị trường tăng bình quân 22%/năm và chiếm tỷ trọng 8,5% GRDP đạt mục tiêu đề ra đến năm 2025 là 22%/năm và chiếm tỷ trọng 8,5% GRDP.

Tổng kinh phí huy động thông qua các nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2021 - 2025 là 643.584 triệu đồng, chiếm 0,19% so với GRDP giai đoạn 2021 – 2025 (341.858.000 triệu đồng), chưa đạt so với mục tiêu đề ra (2% so với GRDP), giảm 24,10 % so với giai đoạn 2016 – 2020; tỷ trọng ngân sách Nhà nước chiếm 55,56%, đạt mục tiêu đề ra khoảng 30% - 35%. Hàng năm, tỉ lệ chi ngân sách Nhà nước dành cho hoạt động KH&CN so với tổng chi ngân sách Nhà nước từ 0,42% – 0,68%, chưa đạt mục tiêu đề ra khoảng 2% trong tổng chi ngân sách tỉnh cho KH&CN.

So với nhiệm kỳ trước tiềm lực KH,CN&ĐMST được củng cố và tăng cường hơn: Tỉ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài kỹ thuật vào sản xuất từ 85% - 95%; số chỉ dẫn địa lý (CDĐL) được bảo hộ tăng từ 03 lên 09, nhãn hiệu chứng nhận tăng từ 04 lên 10, nhãn hiệu tập thể tăng từ 22 lên 34; doanh nghiệp KH&CN tăng 06 - 10, tổ chức KH&CN tăng từ 13 – 16; 01 doanh nghiệp Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tăng từ 04 - 05 doanh nghiệp đạt Giải thưởng Chất lượng Quốc gia, xây dựng 02 quy chuẩn kỹ thuật địa phương, hình thành 01 nền tảng dùng chung về du lịch được vận hành;

Các nhiệm vụ đã hoàn thành theo mục tiêu đến năm 2025: thành lập và đưa vào khai thác Trung tâm Giống và Hoa kiểng tỉnh Bến Tre, Trung tâm giám sát và điều hành an toàn, an ninh mạng (SOC) tỉnh Bến Tre, Trung tâm điều hành thông minh (IOC) tỉnh Bến Tre, duy trì và nâng tầm Không gian khởi nghiệp (Mekong Innovation Hub) đều phát huy vai trò hạt thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST phát triển. Riêng nhiệm vụ thành lập Không gian thương hiệu hoàn thành trong năm 2025.

Chỉ số ĐMST cấp tỉnh (PII) 2025 Bến Tre có tăng về điểm số so với PII năm 2023 (37.65 điểm) và giữ vững thứ hạng 5 so với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và tăng từ hạng 28 lên hạng 26 so với cả nước. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tỉnh phối hợp quản lý, triển khai 122 nhiệm vụ KH&CN, trong đó 09 nhiệm vụ cấp nhà nước, 107 nhiệm vụ cấp tỉnh, 06 nhiệm vụ cấp cơ sở và đã nghiệm thu 70 nhiệm vụ, có 02 nhiệm vụ được đánh giá đạt kết quả xuất sắc. Hầu hết các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN được triển khai thời gian qua đã và đang ứng dụng vào thực tế mang lại hiệu quả, góp phần thực hiện chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận những thành tựu KH&CN mới; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nhiều loại cây trồng, vật nuôi và các sản phẩm, hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong lĩnh vực nông nghiệp đã tập trung nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH&CN để phát triển các cây, con chủ lực và có tiềm năng phát triển theo hướng bền vững thông qua tuyển chọn bộ giống có chất lượng, xây dựng thương hiệu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, liên kết trong sản xuất tạo ra sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm và có giá trị kinh tế cao....

Nghiên cứu thành công quy trình nhân giống cua biển góp phần đảm bảo nguồn sản phẩm chất lượng mang CDĐL Bến Tre; quy trình thu giống tự nhiên, nuôi hàu thương phẩm tỷ suất lợi nhuận đạt 2,45 lần; các mô hình nuôi tôm càng xanh thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng; quy trình nuôi cá Hồng Mỹ thương phẩm bằng thức ăn công nghiệp đạt 08 tấn/ha với sản phẩm khô cá Hồng Mỹ một nắng đạt chứng nhận OCOP 4 sao và đã được nhân rộng trên địa bàn huyện Thạnh Phú, góp phần đa dạng đối tượng nuôi cho vùng nước mặn lợ, tận dụng tối đa tiềm năng mặt nước và phát triển nghề nuôi từ các ao nuôi tôm kém hiệu quả, hạn chế được rủi ro, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân trên diện tích đất canh tác. Điều tra nguồn giống thủy sản vùng biển Bến Tre đã bắt gặp 90 loài có giá trị kinh tế, 12 loài thuộc các bậc nguy cấp khác nhau

Nghiên cứu đánh giá mức độ gây hại, xây dựng mô hình và các giải pháp phòng trị của sâu ăn lá dừa theo hướng sinh học an toàn trên địa bàn tỉnh Bến Tre (đã thu thập 10 loài thiên địch tự nhiên tại Bến Tre), phóng thích ong ký sinh và sử dụng các biện pháp tổng hợp khác diện tích dừa bị nhiễm sâu đầu đen phục hồi rất tốt. Thực hiện phân lập, tuyển chọn được 03 chủng vi sinh vật nhau có hiệu lực phòng trừ sâu đục thân trên cây xoài >70% so với đối chứng; quy trình sản xuất chế phẩm sinh học quy mô sản xuất thử (pilot) phòng trừ sâu đục thân trên cây xoài, quy mô 50 lít/mẻ;

Xây dựng 02 mô hình trình diễn sử dụng chế phẩm sinh học phòng trừ sâu đục thân trên cây xoài Tứ Quý và cây xoài cát Hòa Lộc; 03 mô hình thâm canh xoài Tứ Quý, giai đoạn kinh doanh trái theo tiêu chuẩn VietGAP Tổ chức ký kết hợp đồng tiêu thụ để tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Kết quả đề tài cũng đã bình tuyển 02 cây đầu dòng sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh và có năng suất cao hơn 10%. Đồng thời, đã phân tích chuỗi giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, đa dạng hóa các kênh tiêu thụ và xây dựng chiến lược thương mại điện tử cho sản phẩm xoài Tứ Quý; hoàn thiện trang web cập nhật các nguồn thông tin về kỹ thuật và thị trường cho các vùng trồng xoài tại huyện Thạnh Phú (https://xoaituquythanhphu.com).

Xác định được nhóm nguyên nhân và xây dựng bộ giải pháp phòng chống hiện tượng thối hoa, rụng quả non hiệu quả trên cây chôm chôm tại Bến Tre; đánh giá thành phần sâu, bệnh hại và một số đặc điểm sinh học của các loài sâu gây hại chính.

Đánh giá hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm gạo Nàng Keo của huyện Thạnh Phú, làm cơ sở để xây dựng, quản lý và phát triển CDĐL “Gạo Nàng Keo Thạnh Phú”, được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký CDĐL số 00137 theo Quyết định số 68/QĐ - SHTT ngày 05/02/2024. Xây dựng hệ thống quản lý và sử dụng CDĐL, tăng cường vai trò kiểm soát của cộng đồng đối với chất lượng sản phẩm và tài sản CDĐL. Các công cụ quản lý và sử dụng CDĐL đã được điều chỉnh hoặc xây dựng mới phục vụ cho việc quản lý chất lượng sản phẩm và CDĐL. Xây dựng kế hoạch phát triển thị trường cho sản phẩm “Gạo Nàng Keo Thạnh Phú”: Thiết kế và xây dựng các công cụ quảng bá giới thiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại giới thiệu sản phẩm, thử nghiệm phân phối. Từ đó, khẳng định được giá trị của sản phẩm đặc sản được bảo hộ CDĐL “Gạo Nàng Keo Thạnh Phú”. Tăng cường năng lực sản xuất, kinh doanh, quản lý và khai thác CDĐL thông qua việc biên soạn các tài liệu và tổ chức tập huấn cho các hộ gia đình sản xuất của 07 xã của huyện Thạnh Phú thuộc khu vực địa lý “Gạo Nàng Keo Thạnh Phú”.

Tiến hành nuôi cấy mô và lưu trữ nguồn mẫu 4 nhóm cây (kiểng hoa, kiểng lá, dược liệu, cây ăn trái ngắn ngày) và các loại hoa kiểng (dạ yến thảo, tử la lan, hoa hồng Golden, cúc Pico, các loại hoa lan), các giống chuối.

Nghiên cứu xác định các tác nhân gây bệnh và xây dựng các biện pháp phòng trị bệnh tiêu chảy trên đàn bò nuôi, nâng cao giá trị về năng suất, chất lượng cho sản phẩm con bò tại Bến Tre. Hoàn thiện 02 quy trình nuôi gà Nòi thương phẩm và sinh sản, 02 quy trình nuôi gà Nòi thả vườn thương phẩm và sinh sản có kiểm soát, gà cho lượng thịt ở ức tỉ lệ 19,5% và ở đùi 23,7% được Chi cục thú y đưa vào ứng dụng phục vụ công tác quản lý của ngành, góp phần hạn chế dịch bệnh trong chăn nuôi.

Kết quả điều tra khảo sát bệnh Viêm da nổi cục (VDNC) ở bê ≤ 6 tháng tuổi là cao nhất. Bệnh VDNC trên bò ở Bến Tre phụ thuộc vào lứa tuổi của bò, phương pháp diệt ve, định kỳ sát trùng chuồng trại và tiêm phòng vaccine. Tỷ lệ lưu hành virus VDNC trong các hộ chăn nuôi bò tại Bến Tre là 13,8%. Tất cả 08 chủng virus VDNC thực địa tại Bến Tre có quan hệ gần với các chủng virus VDNC được phát hiện trước đó tại Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc với mức độ tương đồng gen từ 97,70 – 97,72%. Đã xây dựng thành công bản đồ dịch tễ mô tả phân bố bệnh VDNC tại tỉnh Bến Tre theo không gian và thời gian. Xây dựng 01 mô hình chăn nuôi bò theo hướng an toàn sinh học trên 12 hộ chăn nuôi bò, tất cả đàn bò mô hình đều khỏe mạnh, không phát hiện bệnh VDNC, sinh trưởng và sinh sản bình thường, đáp ứng miễn dịch tốt sau khi tiêm phòng vaccine.

Đã đánh giá hiện trạng nguồn giống cá bông lau tự nhiên, cá bố mẹ và nghề nuôi cá bông lau tươi trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình ương và nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất và định hướng sản phẩm cá bông lau đưa ra thị trường. Đã xây dựng thành công quy trình ương thuần dưỡng và quy trình nuôi thương phẩm cá bông lau trong ao đất. Sản phẩm cá bông lau tươi và cá bông lau một nắng được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao theo Quyết định 334/QĐ-UBND ngày 24/01/2024 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại. Diện tích nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao đến nay là 3.509 ha (Ba Tri 427 ha, Bình Đại 1.754 ha, Thạnh Phú 1.328 ha).

Việc triển thực hiện Đề án của Tỉnh ủy, mặc dù chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, khí hậu, dịch bệnh trên người, cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, với sự quyết tâm, nỗ lực phấn đấu của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, cùng với sự đồng hành của các nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân, hoạt động KH,CN & ĐMST trên địa bàn tỉnh cơ bản thực hiện được quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu đề ra của Đề án, từng bước tạo được sự chuyển biến trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và nhân dân về vai trò của KH,CN & ĐMST trong sự nghiệp phát triển của tỉnh.

Ngành KH&CN tỉnh đã triển khai khá tốt các nhiệm vụ đề ra, nhất là hoạt động nghiên cứu ứng dụng, triển khai thí điểm, ĐMST... góp phần giải quyết các vấn đề cấp thiết của địa phương. Phần lớn các đề tài, dự án tập trung xử lý vấn đề bức xúc trong sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản (cây trồng, vật nuôi) phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất nâng cao chất lượng hàng hóa, gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thông qua việc đầu tư đổi mới công nghệ, góp phần tích cực việc tiêu thụ nông thuỷ sản đầu ra, tiết kiệm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, làm giảm chất thải, tìm kiếm nguồn năng lượng, vật liệu mới thay thế các nguồn lực truyền thống giảm ô nhiễm môi trường…. Công tác sở hữu trí tuệ được tập trung, chú trọng quản lý an toàn bức xạ, hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ; Quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng quan tâm đầu tư. Tiềm lực KH&CN; Thị trường KH&CN và ĐMST có bước cải tiến, kịp thời cập nhật phổ biến các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu các sản phẩm, hàng hóa, thúc đẩy phát triển sản phẩm chủ lực theo chuỗi giá trị, đặc biệt là các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư ứng dụng KH&CN, công nghệ cao trong sản xuất nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.

Hoạt động hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đã và đang được các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai thực hiện một cách chủ động, bằng nhiều hình thức, nhiều nội dung, nhằm từng bước hình thành và phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.

Tuy nhiên, việc triển khai các Kế hoạch cụ thể hóa Đề án  trong điều kiện rất khó khăn do diễn biến hết sức phức tạp của dịch bệnh Covid-19, nhất là giai đoạn tỉnh áp dụng phòng, chống bằng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15, 16, dẫn đến kết quả tiếp cận đầy đủ các chính sách KH&CN ở các ngành, các cấp, doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân chưa đạt như mong muốn.

Thực trạng phát triển công nghệ cao, phát triển doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động. Mức độ đóng góp của KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương chưa cao. Việc đổi mới công nghệ chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, nguyên nhân một phần là do doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đa số có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, dẫn đến năng lực cạnh tranh còn thấp; chưa thật sự quan tâm đầu tư hợp lý hóa quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ, cải tiến phương pháp quản lý, nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc của người lao động, tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) … góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.

Kết quả hoạt động, đóng góp của KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội còn ở mức khiêm tốn so với nhu cầu. Quản lý, khai thác và phát triển các nhãn hiệu cộng đồng chưa đạt kết quả cao; ứng dụng KH&CN trong hoạt động logistics (hậu cần: kho, bãi, vận chuyển,…) chưa hỗ trợ tốt cho việc thương mại hóa nông sản và các sản phẩm chế biến từ nông sản. Các hợp tác xã, tổ hợp tác, phần lớn có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hoạt động còn đơn lẻ, chưa phát huy tốt hỗ trợ lẫn nhau; việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao; sự tự giác của người sản xuất, kinh doanh còn đặt nặng về lợi nhuận mà chưa thật sự quan tâm đến tính an toàn và chất lượng của sản phẩm.

Các nhiệm vụ hỗ trợ bước đầu phát triển ở công tác tạo lập, việc quản lý, khai thác và phát triển nhãn hiệu cộng đồng vẫn trong giai đoạn thí điểm; Nhận thức của người sản xuất, kinh doanh nông sản, nhất là người dân ở những vùng có chỉ dẫn địa lý gắn liền với đặc sản, về lợi ích của việc đăng ký còn chưa rõ ràng, chưa tạo được sự khác biệt nổi bật đối với sản phẩm thông thường (không mang nhãn hiệu).

Đầu tư cho phát triển KH,CN & ĐMST còn thiếu và chưa đồng bộ; Quy mô diện tích sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, sản xuất còn mang tính tự phát, dẫn đến việc áp dụng và nhân rộng mô hình các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất còn bất cập. Năng lực tiếp nhận và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất của các doanh nghiệp, hộ nông dân và các tổ chức KH&CN của tỉnh còn nhiều hạn chế.