Ngày đăng: 07-06-2024     Tác giả: Nguyễn Văn Toàn     Chuyên mục: TIN TỨC - SỰ KIỆN

Kỷ niệm 113 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2024)

Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 9/9/1969) nhấn mạnh: “Hoài bão lớn nhất của Hồ Chủ tịch là Tổ quốc được giải phóng, Nhân dân được hạnh phúc”.

Bác Hồ tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Năm 1885 Kinh đô Huế thất thủ, nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Như lời nói trước khi hy sinh vì đại nghĩa của Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1836-1868) “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, nước Nam mới hết người đánh Tây”, bầu nhiệt huyết cứu nước của người Việt Nam được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Tuy nhiên, những con đường cứu nước theo kiểu cũ như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, phong trào Duy Tân, khởi nghĩa Yên Thế, khởi nghĩa Yên Bái… không còn phù hợp. Lịch sử dân tộc đòi hỏi phải có một con đường cứu nước mới.

Ngày 5/6/1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên tàu L'Admiral Latouche Trévill của Pháp với vai trò phụ bếp, rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra nước ngoài tìm đường cứu nước.

Trên cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến các nước tư bản tiên tiến nhất lúc bấy giờ là Pháp, Mỹ, Anh… và nhiều nước thuộc địa trên thế giới. Người nhận ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa là: “trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[1] và “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”[2].

Vào năm 1920, qua nghiên cứu Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Người nhớ lại: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng chúng ta”[3].

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Khu Công nghiệp liên hợp gang thép Thái Nguyên nhân dịp lò cao số 1 ra mẻ gang đầu tiên (1/1/1964). (Ảnh tư liệu lịch sử)

 

Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), tài liệu giảng dạy cho những hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc. Phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin…”[4]. Đảng cách mạng đó được Người sáng lập ngày 3/2/1930. Đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Kể từ đó, đúng như đáng giá của Người: “Đảng ta đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho Nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”[5].

Ngày 28/1/1941, sau nhiều năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Tiếp đó, Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và Việt Nam đã trở thành ngọn cờ cổ vũ cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc - Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Bác Hồ chỉ rõ cần xây dựng chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc cho Nhân dân 

Trên Báo L’Humanité ra ngày 25/7/1922, trong thư gửi toàn quyền Đông Dương Albert Sarrau, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán và châm biếm về hạnh phúc giả dối của thực dân Pháp khi thực hiện chính sách cai trị đối với nước ta và các nước thuộc địa. Người viết: “Dưới quyền cai trị của ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với những sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu Á và sung sướng nhất trần đời”.

Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), sau khi đặt chân đến đất nước của V.I. Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định sâu sắc, toàn diện về Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”[6]. Bởi vậy, Người nhấn mạnh: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”[7].

 

Ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. (Ảnh minh họa)

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách mạng đã đập tan xiềng xích của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ phong kiến thối nát trên đất nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội”[8]. Do đó, Người khẳng định: “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”[9].

Trong một buổi nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30/5/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”[10].

Muốn cho Nhân dân ấm no và hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói một cách giản dị, dễ hiểu: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc thì chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho Nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc”[11], “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho Nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[12] và “Chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”[13]. Do đó, khi miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng đời sống no ấm và hạnh phúc cho Nhân dân”[14].

Ngày 9/9/1969, Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn: “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề: Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và Nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”.

Bởi vậy, sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thì Đảng ta đã giương cao hơn nữa ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI (nhiệm kỳ 1976 - 1981) nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) đã nhấn mạnh: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân”[15]

Đúng như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng rằng nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là biến những quyết định quan trọng của Đại hội thành hiện thực sinh động, đưa nghị quyết vào cuộc sống, làm ra của cải vật chất, mang lại cuộc sống hạnh phúc cho Nhân dân.

Nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”. Bài viết nhấn mạnh: “Liên Hợp Quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng”.

Cũng trong bài viết trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh Đảng ta, đất nước ta và dân tộc ta sẽ “phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước Việt Nam ta ngày càng “cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, tr. 268

[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 270

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 127

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 304

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 401

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 280

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 270

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 629

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 160

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 272.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 17.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 438

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 294

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 293

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 47.