Ngày đăng: 17-01-2025     Tác giả: Huy Phục     Chuyên mục: TIN TỨC - SỰ KIỆN

Trong lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam giữ vai trò và vị trí rất quan trọng. Vai trò đó của phụ nữ đã được lưu truyền trong sử sách và truyền tụng trong dân gian từ đời này qua đời khác bằng ca dao truyện tích huyền thoại… Trong đó, cuộc khởi nghĩa giành độc lập của Hai Bà Trưng, Bà Triệu…; khi giặc Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, nhân dân cả nước nói chung và nhân dân miền Nam không ngừng nổi dậy đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị chống đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Trong tất cả các cuộc đấu tranh đó, đều có vai trò của phụ nữ, đã góp phần in đậm thêm truyền thống của dân tộc “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.

Sau hiệp định Genève 1954 Mỹ và cả Pháp quyết tâm phá hoại các điều khoản của hiệp định về hiệp thương tổng tuyển cử. Ý đồ đen tối của Mỹ là dựng lên ở phía nam vĩ tuyến 17 một nước chư hầu riêng biệt, độc tài, chống cộng triệt để - nghĩa là chống độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Chính sách của chế độ thực dân mới do Mỹ, ngụy cai trị ở miền Nam tàn bạo, dã man.

Trong tình hình đen tối ấy, nhân dân miền nam không còn con đường nào khác là nổi dậy làm cách mạng lần nữa, đánh đổ ách thống trị của Mỹ và tay sai, giành lại tự do, độc lập thống nhất tổ quốc bằng bất cứ giá nào. Nhiều cuộc đấu tranh vũ trang từng lúc đã nổ ra ở nhiều nơi trước năm 1960 ở Quảng Ngãi, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bạc Liêu, Đồng Tháp. Đó là những báo hiệu về một cơn bão mới của cách mạng miền Nam tất yếu phải xảy ra. Trước tình thế bức xúc ấy, Nghị quyết 15 của Đảng ra đời đề ra triển vọng mới của cách mạng miền Nam.

Vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 của Đảng với phương thức 2 chân, ba mũi của Tỉnh ủy Bến Tre, mà đứng đầu là Cô Ba Định, đồng chí Nguyễn Thị Định là một trong những người đã lãnh đạo cuộc Đồng khởi nổ ra tại vùng đất Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre ngày 17-01-1960 đã lan rộng nhanh chóng ra cả tỉnh, vượt sông Tiền và sông Hậu, bùng cháy lên khắp các tỉnh miền Nam, tới các vùng ven đô Sài Gòn thắng lợi và là một trong những “cô đở” của “đội quân tóc dài”, đã làm khiếp đảm mỹ, ngụy; chiến công xuất sắc ấy đã từng in một dấu ấn nổi đậm trên trang sử oanh liệt chống mỹ cứu nước ở miền Nam.

Đồng chí Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920, là con út trong gia đình giàu truyền thống cách mạng ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Khi tròn 16 tuổi, bà giác ngộ và bắt đầu tham gia cách mạng, đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và vận động quần chúng đấu tranh. Tháng 10-1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Với 72 tuổi đời, 50 tuổi Đảng, có 56 năm hoạt động kiên cường, bất khuất, liên tục đến hơi thở cuối cùng, được Đảng, nhà nước cử giữ nhiều trọng trách quan trọng của đất nước; đồng chí đã gắn bó với những chặn đường đấu tranh vô cùng gian khổ, quyết liệt đáng tự hào của dân tộc ta, đặc biệt trong bước ngoặc lịch sử của thập niên 60 lãnh đạo làm nên cuộc Đồng khởi ở Bến Tre, Cô ba đã góp một bàn tay quan trọng, kéo lá bườm của con thuyền cách mạng, vượt qua bảo tố tiến về phía trước.

Một đời chiến đấu hy sinh, đồng chí Nguyễn Thị Định không chỉ tiêu biểu cho phụ nữ miền Nam thành đồng Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang, bà còn là điển hình mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ, với đức tính khiêm tốn, nhân hậu, cô Ba Định là một trong những người phụ nữ tiêu biểu của đất nước, gắn bó mật thiết với nhân dân. Bà là người lãnh đạo có uy tín, được nhân dân, chiến sĩ và phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế kính trọng; là tấm gương sáng, trao truyền những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ hôm nay và mai sau trong đó có trí thức Bến Tre… Nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bà. Đồng chí chính là tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm để chúng ta học tập noi theo.   

 

Các em học sinh tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Nữ tướng Nguyễn Thị Định tại Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định (xã Lương Hòa). Ảnh: Chương Đài/TTXVN

 

Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất rất quan trọng của con nguời, hơn nữa nó là một phẩm chất đặc biệt của nhân cách đạo đức.

Về bản chất, tinh thần trách nhiệm là sự nhận thức nghĩa vụ và sự tự giác thực hiện nghĩa vụ đó. Không có tinh thần trách nhiệm, thì con người không thể tự quản lý bản thân mình, mất chỗ dựa để kìm chế, kích thích hoặc cân nhắc những hậu quả hành vi của mình, khi thực hiện các nghĩa vụ và chuẩn mực mà xã hội đòi hỏi, sự nhận thức và thực hiện nghĩa vụ đó một cách tự giác.

Cho nên, tinh thần trách nhiệm chỉ nẩy sinh khi con người có quan hệ xã hội. Mỗi người không chỉ có biết mình, chỉ nghĩ đến mình, mà còn phải biết đến người khác, nghĩ đến người khác. Người có tinh thần trách nhiệm là người hết lòng tận tụy với sự nghiệp cứu nước, giữ nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội; trung thành vô hạn với nhân dân, với Tổ quốc, với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa; có ý thức tự lực, tự cường, có tinh thần cách mạng kiên quyết, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong chiến đấu, trong sản xuất và xây dựng; biết xã thân vì nước, vì dân, vì chủ nghĩa xã hội; biết quan tâm đến người khác một cách thân ái và giúp đỡ.

Vì chỉ có lòng nhân ái đó, mới có được tình cảm trách nhiệm trong sáng, mới phát huy trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ đó, mới có thể tự khép mình vào khuôn khổ của pháp luật. 

Người có tinh thần trách nhiệm còn là người luôn có lòng tự nguyện, lời nói đi đôi với việc làm; là người có tinh thần tự giác, biết tự kiểm soát, tự tổ chức lấy bản thân, là người hiếu thấu đáo giá trị xã hội của hành vi mà mình đã có, chịu sự trừng phạt nếu những hành vi đó gây nên hậu quả tiêu cực; biết sửa chữa khuyết điểm để vươn lên không ngừng.

Trong 56 năm hoạt động cách mạng và ròng rã 30 năm có mặt ở chiến trường hết chống Pháp rồi chống Mỹ, đồng chí là một vị lãnh đạo luôn thể hiện khí phách can trường, dũng cãm, mưu trí, sáng tạo, khôn khéo, kiên cường. Với một bài viết không sao chở hết những chiến công của một nữ tướng anh hùng, ở đây người viết chỉ đề cặp đến câu chuyện người phụ nữ đầu tiên trong đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc gặp trung ương và Bác Hồ, để góp phần làm rõ thêm những đức tính cao đẹp ấy.

Người thuyền trưởng - cô Ba Nguyễn Thị Định - khi ấy mới 26 tuổi, đã được giao một trọng trách bí mật và quan trọng như vậy, vì sao? Ngoài ý kiến của các nhà nghiên cứu về quân sự, còn cần lý giải bằng chính cuộc đời của đồng chí Nguyễn Thị Định trước và trong thời điểm năm 1946. Cô Ba Định sinh năm 1920, 13 tuổi giác ngộ cách mạng và bắt đầu làm liên lạc cho tổ chức Đảng, 18 tuổi lập gia đình. Chồng cô Ba Định là đồng chí Nguyễn Văn Bích (Ba Bích), Tỉnh ủy viên, hoạt động chung với anh trai của cô Ba. Năm 1940, khi cô Ba sinh người con đầu lòng được vài ngày thì chồng bị địch bắt, cô Ba cũng bị mật thám Pháp bắt giam tại Khám Lá Bến Tre, rồi đưa lên giam tại Sài Gòn và biệt giam tại khu tù chính trị “căng” Bà Rá. Năm 1943, sau khi thoát khỏi nhà tù thực dân, cô Ba tiếp tục hoạt động và tham gia giành chính quyền trong khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945. Tại thời điểm ấy, thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức một đoàn thuyền vượt biển ra rước các đồng chí ở tù Côn Đảo, trong đó có nhiều đồng chí cốt cán của Tỉnh ủy Bến Tre bị địch bắt. Cũng chỉ đến thời điểm hòa bình và đoàn tụ đó, cô Ba mới biết chồng mình đã bị sát hại. Thù nhà, nợ nước phải trả, cô Ba nuốt hận tiếp tục con đường tranh đấu. Lòng can trường, đức hy sinh, sự kiên trung, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn bám dân, bám đất, bám địa bàn, thông thạo địa hình sông nước, đó là những phẩm chất hội tụ ở nữ đồng chí Nguyễn Thị Định. Đó cũng là những tố chất cần có của người thuyền trưởng!

Theo đồng chí Đồng chí Trần Bạch Đằng (năm 1946 là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ), trong một bài nghiên cứu đã từng xác nhận: “Đường dây áp tải vũ khí vào Nam, lấy vùng tự do Khu 5 làm trạm trung chuyển hình thành từ năm 1946, không thể không ghi công của chị Ba Nguyễn Thị Định, là một trong những người đề xuất chủ trương và tổ chức thực hiện”. Qua tư liệu lịch sử có thể mô hình hóa hành trình và qui luật của những chuyến tàu đặc biệt qua chuyến vượt biển đầu tiên từ Nam ra Bắc và chở vũ khí về Nam thành công. Cụ thể như sau: Thạnh Phú (Bến Tre) - Phú Yên - Quảng Ngãi - Hà Nội - Quảng Ngãi - Phú Yên - Thạnh Phú (Bến Tre). Tư liệu xác thực nhất về kết quả chuyến trở về của con thuyền mang theo 12 tấn vũ khí do cô Ba Định chỉ huy qua những trang hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà viết năm 1992. Tháng 12-1946, đồng chí Trần Văn Trà - Khu Trưởng Khu 8, trực tiếp nhận số vũ khí Trung ương chi viện do thuyền trưởng Nguyễn Thị Định mang về, địa điểm giao nhận số vũ khí này là bờ biển Thạnh Phú.

Trở lại thời gian trước đó, cuối tháng 5-1946 tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Thị Định bịn rịn chia tay những đồng chí, đồng hương trong chuyến vượt biển ra Bắc đầu tiên để trở về Nam với nhiệm vụ nặng nề: nhận vũ khí vượt trùng dương về lại Bến Tre. Lúc đầu, Trung ương bố trí cô Ba Định đi đường bộ vào Quảng Ngãi - nơi đặt trụ sở của Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Khu 5. Đồng chí Nguyễn Thị Định báo cáo kết quả chuyến ra Hà Nội gặp Trung ương và Bác Hồ, đồng thời truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Trung ương và bàn kế hoạch vận chuyển vũ khí về Nam Bộ bằng đường biển. Tại đây, đồng chí Nguyễn Thị Định có điều kiện tiếp cận các tài liệu về đường lối cách mạng, đường lối chính trị, đường lối quân sự, phương pháp vận động cách mạng quần chúng, phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân ở địa phương. Điều mừng nhất là đồng chí Nguyễn Thị Định vào tận kho quân sự của Khu 5 nhận súng, tiền và tài liệu cho Khu 8 và còn năn nỉ xin thêm “các anh cho tôi 1.000 cây, tôi đi một chuyến cho đáng!”.

Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Thị Định theo đường giao liên Khu 5 áp tải số vũ khí này về tỉnh Phú Yên. Nơi đây, theo sự chỉ đạo của trên, đã chuẩn bị một con thuyền buồm lớn với đoàn thủy thủ trên 10 người. Đến nay, tư liệu ảnh về chuyến hải trình trở về này còn lại một tấm hình quí giá ghi lại khoảnh khắc thuyền chuẩn bị xuất bến tại Tuy Hòa (Phú Yên) giữa tháng 12-1946. Con thuyền chở vũ khí về Nam tuy cũng bằng gỗ nhưng lớn hơn, chắc chắn hơn con thuyền khi từ Nam ra Bắc. Đây là con thuyền có hình dáng, kết cấu giống ghe bầu mũi đỏ Gò Công với ba cột buồm và phần mái thấp, khoang bên dưới rộng. Hải trình trở về, lúc đầu thuyền chạy ra hướng Đông, khi đến hải phận quốc tế xuôi về Nam. Sau khi xác định rõ tọa độ mới nhích dần về bờ biển miền Tây Nam Bộ. Con đường trên biển hoạch định là vậy song thuyền trở về khi mùa mưa nhiều giông bão, lại phải đối phó với các tàu tuần tiễu của Pháp, Có một chi tiết tạo ra tình huống bất ngờ khi con thuyền chở vũ khí chuẩn bị cập bờ Thạnh Phong nên thủy thủ đoàn phải thật khôn khéo, bình tĩnh mới vượt qua được những trạm kiểm soát của địch, thậm chí cả đoàn sẵn sàng hy sinh cho nổ tung con thuyền khi cần thiết.

Do thời điểm vào bờ lúc nước ròng, lại ban đêm, thuyền bị mắc cạn, đồng chí Nguyễn Thị Định phải xuống thuyền thúng một mình bơi vào bờ để bắt liên lạc. Đây là loại thuyền hình tròn mà cô Ba đã được bà con ngư dân Phú Yên hướng dẫn cách sử dụng. Dân quân tự vệ xã Thạnh Phong phát hiện “thuyền lạ và người lạ” nên giữ lại xét hỏi. Sau một hồi vừa trả lời, vừa thẩm định tình hình và xác định đây là “Người của đằng mình”, cô Ba Định mừng khôn tả, rồi xin gặp chỉ huy du kích địa phương truyền đạt chỉ đạo khẩn cấp dùng thuyền nhỏ chở số vũ khí về nơi tập kết ngay trong đêm ấy. Con thuyền chở vũ khí từ Bắc vào Nam lần đầu tiên cuối năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Theo Cố Phó thủ Tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng, Bài học kinh nghiệm lớn nhất từ chuyến vượt biển ra Bắc và chở vũ khí về Nam năm 1946 do cô Ba Nguyễn Thị Định làm thuyền trưởng, là người làm cách mạng phải kiên định lập trường, sáng tạo trong hành động, linh hoạt trong thực thi kế hoạch. Đánh địch phải dùng mưu, thắng địch phải dùng trí, thực hiện phương châm dựa vào sức mình là chính. Kỹ thuật hàng hải, nghệ thuật nghi trang, tổ chức đường dây vận tải trên biển, cách đối phó với địch,… là những yếu tố quyết định thành công của những chuyến tàu mang sứ mạng chở vũ khí từ Bắc vào Nam trong thời kỳ đánh Pháp 9 năm cũng như giai đoạn đấu tranh chống đế quốc Mỹ sau này.

Đối vơi nhà nghiên cứu Thạch Phương: con người bà Ba Định là sự kết hợp hài hòa giữa đức tính can trường, dũng cảm với lòng nhân ái, bao dung, giữa ý chí quyết liệt và sự mau nước mắt, giữa cái chất hùng của người lính chiến với nữ tính dịu dàng, đồng thời cũng rất rạch ròi giữa cái đúng và cái sai, giữa yêu thương và câm giận.

Để học tập và làm theo những đức tính cao đẹp của Nữ tướng Nguyễn Thị Định trí thức Bến Tre phải nghiên cứu quán triệt sâu sắc tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình trình hành động số 55-CTr/TU ngày 23-4-2024 của Tỉnh ủy và kế hoạch của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết 45 của BCH TW Đảng khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; Kế hoạch thực hiện Kết luân số 69-KL/TW ngày 11-01-2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 20-NQ/TW ngày 01-11-2012 của BCH TW Đảng Khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH --HĐH trong diều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập Quốc tế; Đặc biệt Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của đất nước trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là kim chỉ nam cho sự phát triển trong kỷ nguyên mới phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng và là lời hiệu triệu mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cùng nỗ lực đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, có năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Nghị quyết có tính định hướng chiến lược rõ ràng, đặt khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện sự công nhận mà còn khích lệ, động viên giới trí thức, nhà khoa học cảm thấy tự hào và ý thức trách nhiệm cao hơn, tạo động lực để tiếp tục nỗ lực nghiên cứu và sáng tạo, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển đất nước và quê hương; đội ngũ trí thức, cần tiếp tục chủ động, sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức mới; nhất là hướng các nghiên cứu của mình vào những vấn đề thực tiễn mà tỉnh ta đang quan tâm như sử dụng hợp lý tài nguyên, phòng tránh thiên tai và bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, công nghệ sinh học, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế tuần hòa, kinh tế xanh, phát triển bền vững … tích cực tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, trở thành cầu nối giữa khoa học và các cơ quan hoạch định chính sách; giúp các chính sách được xây dựng trên cơ sở khoa học, sát với thực tiễn và có tính khả thi.

Để kết thúc bài viết này, người viết xin mượn những bộc bạch chân thành, sâu lắng về Cô Ba Định của bà Hà Thị Nga, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, hiện Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang:

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú, sôi nổi, dù ở bất cứ đâu, ở cương vị nào, Nữ tướng Nguyễn Thị Định luôn thể hiện tinh thần trung kiên, suốt đời phấn đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Bà là hiện thân của đức tính khiêm nhường, lòng vị tha, nhân hậu, gắn bó mật thiết với nhân dân và tinh thần làm việc hăng say đến hơi thở cuối cùng.