Ký ức mùa xuân
“Tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, khẩu hiệu hành động ấy ngày đêm cứ vang mãi, vang xa trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Giải phóng và đến tận ngõ ngách ở các chiến hào chiến đấu, tạo nên khí thế hào hùng quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta. Trong tình cảm của mỗi cán bộ chiến sĩ lúc đó, ai cũng nghĩ đây là trận đánh cuối cùng để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Để chuẩn bị chiến dịch xuân Mậu Thân 1968, Bến Tre phát triển nhiều đơn vị vũ trang, các binh chủng để đủ sức đánh địch. Ngoài phát triển lực lượng vũ trang, dân công hỏa tuyến, còn tổ chức lực lượng quần chúng xuống đường rất hùng hậu; cơ cấu tổ chức như lực lượng vũ trang gồm Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu Đoàn, Trung đoàn có khung chỉ huy của từng cấp. Khí thế xuống đường trào dâng, sục sôi chưa từng có, ai cũng mong đến ngày nổ súng tấn công.
Đi đến đâu cũng nghe nhân dân nói về việc ta chuẩn bị tổng tấn công Mậu Thân. Nhân dân và bộ đội ở trong vùng giải phóng thời đó ai cũng thuộc bài hát “Xuống Đường” của tác giả Huỳnh Minh Siêng, bài hát có đoạn: “Xuống đường, xuống đường đập tan mọi xích xiềng, quyết đứng lên giành chính quyền, miền Nam quê hương ta sống nô lệ trăm năm qua…”; Hay bài hát “Tải đạn ra chiến trường”, của tác giả Thanh Anh lời bài hát như sau: “Từng phút từng giây chiến trường đang mong đợi. Chị em mình mau tải đạn nhanh lên. Quê hương ta đó chìm trong lửa máu. Anh giải phóng quân đang cần đạn giết thù. Chị em mình ơi nào ngại gian lao. Đường ta đi dù đạn bom chặn lối. Suối sông nhiều dốc đứng đèo cao. Chị em mình mang đạn nặng hai vai. Nặng sao hơn thù quân giặc Mỹ. Ơi anh giải phóng giết Mỹ nhiều hơn nữa. Chiến công rồi sẽ nở như hoa. Chị em nhanh lên tải đạn ra chiến trường. Chung sức giết thù giải phóng miền Nam. Thống nhất nước nhà cùng hát khải hoàn ca...”
Tôi được trên điều từ Mỏ Cày qua Giồng Trôm tăng cường cho Ban chỉ huy Tiền phương.
Tôi đi từ An Thạnh xuống An Thới trong một chiều xuân, khi những tia nắng vàng chiếu lấp lánh trên mặt đường, trên ngọn cây, từng cơn gió đông thổi nhè nhè lên mặt làm dịu đi cái nắng chiều. Trên đường đi, đã bắt gặp không khí hồ hởi của người dân, của Tiểu đoàn học sinh kháng chiến chuẩn bị xuống đường.
Được biết Ban chỉ huy Tiểu đoàn học sinh kháng chiến lúc đó, do thầy Đỗ Hồng Sơn làm Tiểu đoàn Trưởng, Thầy Dũng Tiến làm Chính trị viên (thầy Dũng Tiến sau ngày miền Nam giải phóng thống nhất đất nước, có lúc thầy làm Hiệu Trưởng Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu).
Gặp tôi trên đường từ An Thới ra An Định, thầy gọi tôi vào Ban Chỉ huy tiểu đoàn để giới thiệu về biên chế và nhiệm vụ của tiểu đoàn.
Thầy giới thiệu người ngồi bên cạnh thầy là thầy Đỗ Hồng Sơn từ miền Bắc tăng cường về cho Bến Tre. Tôi nghĩ, trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi vào giai đoạn ác liệt nhất, gian khổ nhất mà trên tăng cường cho Bến Tre một giáo viên được đào tạo bài bản ở Miền Bắc về cho ngành giáo dục thời chiến cũng là cái nhìn chiến lược để đào tạo nguồn nhân lực cho kháng chiến lâu dài.
Nắm chặt tay tôi thầy Hồng Sơn bảo: Tuổi em đúng ra, là cái tuổi còn đang cắp sách đến trường, nhưng hiện tại trên vai em lại quàng khẩu súng và chiếc ba lô. Song, thời chiến mà, tuổi trẻ phải xông pha trên tuyến đầu diệt giặc Mỹ, khi nào giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, cắp sách trở lại học đường đâu có muộn. Phải không em?
Dạ thầy bảo đúng rồi!.
Thầy Dũng Tiến chỉ tay về phía Sơn. Em này là trinh sát của tiểu đoàn, chắt cùng lứa tuổi với em, cũng thích đi bộ đội lắm, đơn vị em có thiếu người không thầy cho luôn.
Sơn đến bắt tay tôi nói ê: Có Thúy, Lan, Oanh ở cũng ở tiểu đoàn nầy.
Thầy Dũng Tiến quay sang tôi hỏi: Bộ hai em quen nhau hả? dạ tụi em đồng hương.
Gặp đồng hương, thầy mời em ở lại ăn cơm với tiểu đoàn mai đi cũng không muộn đâu, chiến dịch còn dài mà.
Thấy tôi lưỡng lự, Sơn càng nắm chặt tay tôi bảo ở lại đi.
Tôi đành phải chiều ý thầy.
Sơn dẫn tôi xuống bộ phận hậu cần của tiểu đoàn, thấy các bạn nữ cùng lớp hồi đó, đang tất bật với bữa cơm chiều.
Thấy tôi Oanh nói: Cơn gió nào đưa anh tới đây, thấy ai ngồi lặt rau không? Tôi chưa kịp trả lời, Oanh gọi Thúy có người quen.
Oanh nắm tay tôi dẫn đến chỗ Thúy ngồi lặt rau nói: Cho bạn một người giúp việc đắc lực, rồi cười và bỏ đi.
Tôi ngồi xuống định giúp Thúy một tay, nhưng Thúy bảo: Anh vào Ban Chỉ huy Tiểu đoàn uống nước với thầy đi, để một mình em làm được mà. Nghe mấy người quen nói anh sang Bão rồi mà, sao còn ở đây?.
Vì bên Minh cũng thiếu người, nên đơn vị giữ lại gần cả tháng nay, nhưng bên BCH Tiền phương cũng thiếu người nên điều anh qua Bão.
Lan từ trong nhà bước ra nói: Ê bắt quả tang nghe, mai mốt hỏng có chối hà.
Thúy nói: Có gì đâu mà bắt quả tang với không quả tang, thầy mời ảnh ở lại ăn cơm đó.
Tôi quay sang hỏi Lan, lớp mình còn bao nhiêu bạn? chỉ còn trên dưới mười ngoe. Còn bao nhiêu đã lên đường vào bộ đội hết rồi.
Lan nói: Hai bạn cứ ở đây tâm sự những gì chưa nói đi, ngày mai chia tay rồi, biết chừng nào gặp lại, rồi Lan bỏ vào nhà.
Tôi nghĩ Lan nói đúng, chiến tranh mà, giây phút gặp nhau trên chiến trường là rất quý, biết có còn gặp lại không.
Thúy nói vậy thôi, chứ bụng Thúy muốn tôi ngồi lại với Thúy, vì nhìn đôi mắt đượm buồn của Thúy tôi hiểu ra điều đó.
Tôi ngồi xuống bên Thúy, Thúy ngước lên và hỏi:
Anh không ghé qua nhà thăm hai bà mẹ sao.
Thời gian đâu mà ghé thăm, trên lệnh phải tranh thủ vượt sông Hàm Luông đêm nay.
Thúy nhìn tôi khẻ nói: Hôm anh lên đường, em và cả lớp buồn muốn khóc rồi Thúy không nói gì thêm…
Tôi lên đường vào bộ đội trong một dịp tình cờ mà Thầy và cả lớp không biết trước. Hôm đó tôi đang ngồi học trong lớp, thấy có hai chú bộ đội đến xin gặp thầy trao đổi việc gì có vẻ bí mật lắm. Sau đó, thầy kêu tôi ra ngoài để gặp hai chú bộ đội thầy nói: Đây là anh Tư và anh Bảy hiện công tác ở Tỉnh đội Bến Tre, đến trường ta để liên hệ rút người đưa đi đào tạo một khóa học rất cơ mật do trên tổ chức.
Theo giới thiệu của xã, em là người có đủ tiêu chuẩn để tham dự lớp học nầy. Ba ngày nửa anh Tư sẽ trở lại rướt em đi.
Từ giã chú Tư và chú Bảy thầy vào lớp thông báo tin nầy cho cả lớp biết.
Nhận được tin báo lên đường nhập ngủ không bất ngờ đối với tôi. Vì hôm trường nghĩ học tôi về thăm nhà có chú Hai Bí thư Chi bộ đến gặp mẹ tôi động viên cho tôi dự lớp học nầy.
Nhưng đối với Thúy và các bạn trong lớp, nhất là những bạn bè đồng hương với tôi thì bất ngờ.
Tan lớp, trên đường về nhà trọ Thúy nói: Anh có hứa mấy chú Tỉnh đội đi học lớp nầy không?.
Có. Vì mấy chú nói: Lâu lắm trên mới mở một lớp học như thế nầy, không đi là mất thời cơ, nên phải đi thôi Thúy ơi!.
Vì đất nước mình còn chiến tranh, không phải riêng anh mà Thúy và cả lớp mình trước sau gì cũng phải lên đường giết giặc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Em cũng nghỉ như anh nói, nhưng tôi đọc trong đôi mắt Thúy hiện lên một nổi buồn xa xăm.
Lan đi trước nói với lại: Chuẩn bị lên đường phãi vui chứ, mới có khí thế ra trận được. Buồn đi không nổi đâu Thúy ơi!
Oanh cũng lên tiếng, mai mốt mình làm một chút gì đó để tiển bạn lên đường chứ.
Lan nói nấu chè ăn nghe.
Sơn bảo ăn chè ngon à.
Lâu quá không ăn chè, nghe Lan nói nấu chè thèm quá.
Cả tổ đều đồng ý, nấu chè tiển tôi.
Khi về đến nhà trọ Thúy nói: Chiều nay mình xin thầy mai về quê thăm hai mẹ, nhân về quê mình xin đường, đậu nấu chè tiển anh để chia tay với các bạn trong tổ
Hồi đó, đi học, tất cả học sinh đều thoát ly gia đình, sống tập thể như bộ đội. Nên đều phải tự lực cánh sinh mọi thứ.
Do đồng hương nên tôi, Sơn, Oanh, Lan, Thúy với Hồng ở Thừa Đức, Bình Đại ghép vào: ăn, ở, sinh hoạt chung một tổ ( vì huyện Bình Đại chỉ có duy nhất một mình Hồng, nên nhà trường cho sinh hoạt ghép với chúng tôi)
Tổ thống nhất hàng ngày phân công 2 người trực nhật; lo cơm, áo, gạo, tiền cho tổ như:.
Tôi với Thúy; Sơn với Lan, Oanh với Hồng trực chung một ngày.
Ngày trực nhật, ngoài nấu cơm, nấu nước còn phải lo đi cải hoạt thức ăn.
Do hồi còn ở nhà Sơn rất giỏi nghề chài, lưới. Nên khi đi học Sơn xin cha mình cho mang theo miệng chài. Chính có miệng chài làm phương tiện cho tổ tự túc thức ăn khỏi phải tốn tiền mua.
Thường ngày đi chài lúc nước sác, hôm nào nước lớn đầy sông thì lấy gạo Làm mồi nhử cá, tép để chài.
Ngày nào không đi chài được thì ăn cơm với tương hoặc chao.
Có một hôm đúng ngày trực nhật của tôi và Thúy, chúng tôi đi chài bắt được con tôm có 2 cái càng rất to và mấy con cá đối.
Khi về đến nhà trọ Sơn thấy có tôm và cá đối, nên đề xuất nấu canh chua.
Tôi nói Thúy ở nhà làm cá để tôi đi hái đọt Lục Bình về làm rau nấu canh.
Thúy nấu xong nồi canh chua khen ngon quá. Sơn bảo: Ăn cơm với canh nóng cho ngon các bạn ơi. Để canh nguội ăn không ngon.
Sơn xuống bếp cùng với Thúy dọn cơm ra chổ dọn ăn thường ngày và gọi cả tổ ra ăn cơm.
Lan ngồi gần nồi canh nói: Thúy nêm ngò thơm quá, bửa nào cũng được ăn như thế nầy là học bài mau thuộc.
Hùng gắp con tôm ra dĩa bẻ hai cái càng chia cho Thúy và tôi mỗi người một cái, còn mình con tôm cắt ra làm 4 phần chia cho Lan, Oanh, Sơn và Hồng.
Nhưng Thúy không chịu, nói tôi đi chài cực khổ để cho tôi ăn 2 cái càng, cuộc đấu lý không có hồi kết. Tôi khuyên Thúy nên chấp nhận sự phân chia của Hồng, Thúy mới đồng ý.
Tuy hằng ngày phải trải vải mũ ngồi dưới đất ăn cơm, vì nhà trọ không có bàn ghế để ngồi, nhưng ngày nào cũng vậy chổ ngồi không thay đổi vị trí: Tôi đến Thúy, Oanh, Sơn, Lan, Hồng.
Có một hôm Thúy vào sau, thấy Lan ngồi ngay vị trí của mình, Thúy bỏ đi không ăn, tôi theo năn nỉ, Thúy nói:
Ngồi chổ khác em ăn cơm không ngon.
Khi Thúy quay vào, Lan trở lại vị trí thường ngồi của mình và nói:
Giởn một chút có gì đâu mà bạn hờn, thôi xin lổi nghe.!
Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày Thúy mến tôi là do:
Cha Thúy và cha tôi hồi đó công tác chung một đơn vị, hai ông có lời ước nguyện với nhau, nếu không mai trong hai người có một người hy sinh, người còn lại phải chăm lo chu toàn cho hai gia đình.
Hai gia đình chúng tôi coi lời nguyện ước sắt đá nầy không ai có quyền thay đổi.
Nhưng cuộc chiến đã vô tình cướp đi mạng sống hai ông: cha Thúy hy sinh trong một trận công đồn.
Sau khi cha Thúy hy sinh, có một lần đi công tác về bên Minh, cha tôi ghé thăm nhà, có mẹ Thúy sang cha tôi nói:
Thím Tám (vì cha Thúy thứ Tám), chúTám đã làm tròn nhiệm vụ với non sông, còn tôi không biết sống chết ngày nào trước họng súng của quân thù, chú thím không có con trai, nếu tôi có mênh hệ nào, sau nầy lớn lên thì nó (cha tôi chỉ tay vào tôi lúc đó tôi đang đứng gần ông) sẽ thay tôi lo cho 2 gia đình.
Ngồi trầm ngâm một hồi ông nói tiếp: nếu không mai cha ngả xuống trên chiến trường, thì tụi con chỉ còn nương tựa vào hai bà mẹ duy nhất trên đời nầy thôi.
Không ngờ lần vể thăm nhà đó, củng là lời trăn trối cuối cùng của ông.
Nhớ hôm mấy chú ở chi bộ ấp đến động viên hai gia đình để cho tôi với Thúy đi học văn hóa, mẹ Thúy bảo Thúy sang nhà tôi kêu tôi qua có chút việc.
Thấy tôi đứng trước cửa bà nói: Vào nhà đi con, sáng ăn cơm nước gì chưa?.
Dạ con ăn rồi.
Ngồi xuống ghế đi con.
À hôm rồi chú hai Chi bộ có gọi con đi học lớp văn hóa gì đó không?
Dạ! thưa thím có.
Rồi mẹ con có cho con đi học không?.
Dạ cho.
Con Thúy đi học có con cùng đi thím đở lo.
Vì từ hồi nhỏ đến bây giờ, nó chưa đi đâu xa nhà dù một ngày, mai mốt đây đi học không những xa nhà, xa quê mà còn sống sinh hoạt như bộ đội không biết nó có chịu đựng nổi không.
Cho nên, tụi con phải nương tựa vào nhau để mà sống, học tập cho thành đạt sau nầy nối gót cha, anh phục vụ kháng chiến.
Thím cho Thúy đi học là do bên Thúy lúc nào củng có tôi, chắc chắn sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn để học tập cho tốt.
Cho nên, hôm tiển tôi lên đường vào bộ đội thím nói:
Con đi rồi không biết con Thúy nương tựa vào ai.
Tôi động viên thím, con đi rồi còn Sơn, Lan, Oanh và cả lớp học sẽ chung tay giúp nhau để vượt qua khó khăn, Thúy không đơn độc đâu mà thím lo.
Con nói như thế thím cũng an tâm phần nào.
Cầu mong trời phật ban phước lành cho con luôn mạnh khỏe.
* *
Thúy ngước lên nhìn tôi nói:
Thôi mình đem rau vào nhà cho Lan nấu canh đi anh, để nó la em chết.
Nấu canh xong Lan dọn cơm cho BCH Tiểu đoàn rồi hỏi tôi:
Anh ăn cơm với tụi em, hay ăn cơm với thầy.
Cùng lúc đó, thầy Dũng Tiến đã gọi tôi và tổ hậu cần cùng ăn cơm với BCH tiểu đoàn.
Thầy nói: Lâu quá thầy trò mới được ngồi cùng nhau vừa ăn cơm vừa trò chuyện.
Năm nay thầy trò chúng ta sẽ đón một mùa xuân thắng lợi như Bác Hồ đã chúc tết:
“Năm qua thắng lợi vẽ vang.
Năm nay tuyền tuyến ắt càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do.
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhàu.
Tiến lên chiến sỉ đồng bào.
Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn”
Vừa ăn cơm vừa trò chuyện đến lúc màng đêm buông xuống mới kết thúc. Thầy Dũng Tiến nói:
Em biết không, mấy hôm nay thầy trò tụi tui tập cách sống sinh hoạt dã chiến như bộ đội. Đêm nay thầy trò mình củng ngủ dã chiến, chắc em đã quen rồi.
Thật ra, tôi đã quen với chiếc võng vãi Ny Long từ khi tôi nhập ngũ, nó giống như chiếc giường di động của bộ đội. Dù nắng hay mưa hể đến chổ đóng quân, việc làm đầu tiên của tôi là tìm vị trí để mắc cho được chiếc võng.
Tất cả bộ đội hồi xưa ai cũng có chiếc võng bên mình, chiếc võng là tài sản vô giá, là vật bất ly thân.
Cũng chính cảm xúc từ chiếc võng của bộ đội Trường Sơn mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết thành bài thơ: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và nhạc sỉ Hoàng Hiệp đã phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây
Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác
Như anh với em, như Nam với Bắc
Như Ðông với Tây một dải rừng liền.
Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.
Em thương anh bên Tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.
Ðông sang Tây không phải đường như
Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Ðông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân, trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn
Thấy tôi mắc võng xong, Lan nói: Anh văng võng, văng mùng dùm tụi em đi, văng kiểu như bộ đội làm sao tụi em biết.
Hồi xưa, bộ đội văng mùng trên võng là phải lấy nóc mùng bọc dưới võng cho muỗi không đốt được, nên mùng văng trên võng chỉ chừa có một của chui vào. Cho nên khi lên võng ngũ, phải nhớ phía nào là cửa mùng, để nửa đêm có pháo bắn, hoặc địch đánh vào đội hình đóng quân, mới chui ra khỏi mùng được.
Lan chỉ vị trí mắc võng cho từng người, giống như vị trí ngồi ăn cơm như lúc đi học ở nhà trọ.
Mới lên võng nhưng Sơn và Hồng đã ngáy kho kho, chỉ có Lan, Oanh và Thúy thì than nằm võng không quen nóng lưng quá ngủ không được.
Thúy nói: Anh tranh thủ ngũ để mai còn đi.
Thức một đêm đâu có hề hấn gì đâu em.
Công việc của anh trên chiến trường giống như con Vạc đi ăn đêm.
Từ khi học xong khóa huấn luyện Trinh sát kỷ thuật quân báo về đơn vị làm việc đến nay, đâu có đêm nào anh ngũ.
Từ 6 giờ chiều cho đến 6 giờ sáng là thời gian làm việc của đơn vị trinh sát kỷ thuật quân báo của các anh. Vì lơ là trách nhiệm trong phút giây thôi, là có thể đánh đổi hàng trăm mạng sống của chiến sĩ ta trên mặt trận.
Gặp anh từ sáng đến giờ, thấy đôi mắt anh thâm quầng em nghỉ chắc anh mất ngũ nhiều lắm, nhưng em không dám hỏi sợ anh buồn.
Vì mình thức để đồng đội sống, chiến đấu, những đêm không ngũ đó là vô giá.
Em nghỉ, bây giờ anh có trải qua gian lao trên chiến trường mới thấy thương cha mình quá phải không anh.
Cha đã nằm yên dưới chín suối không biết hai ông có thấu được nổi khổ của con mình ngày nay không.
Còn mẹ cũng đêm ngóng ngày trông chắc giờ nầy hai bà vẫn còn thức như em với anh.
Nếu một mai mình ngã xuống trên chiến trường, chắc mẹ mình không sống nổi phải không anh.
Nhưng chiến tranh mà em, sống nay chết mai là lẽ thường tình, có ai biết được bao giờ mình chết đâu.
Mình ngã xuống để người khác sống, để đất nước thành bình cũng là quá hạnh phúc phải không em.
Hạnh phúc đâu chỉ có là được sống trong giàu sang, gấm lụa đâu em. Cac Max nói: hạnh phúc là đấu tranh.
Mình đi kháng chiến chống xâm lăng, để giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức bốt lột, đô hộ của ngoại ban, để ai cũng được tự do, cơm no, áo ấm, cũng được học hành như lời dạy của Bác Hồ dạy đó là hạnh phúc.
Lan gọi Thúy ơi, hình như thầy đang rọi đèn Pin đi ra chổ mình.
Tôi nói: thầy Dũng Tiến ra chắc có việc gì gắp lắm.
Đúng như tôi dự đoán, thầy nói: Các em chuẩn bị hành lý để hành quân.
Còn em có đi theo tiểu đoàn không?
Dạ không! em xuống trạm giao liên để kịp vượt sông đêm nay luôn.
Thúy lấy trong ba lô chiếc khăn rằng và chai dầu Nhị Thiên Đường nói: Hôm em về nhà xin mẹ cho đi theo tiểu đoàn, mẹ mua khăn và dầu dặn em: Khi nào trên đường hành quân có gặp anh đưa cho anh phòng khi trái gió trở trời có bị cãm lạnh có dầu mà chống lạnh.
Em cất sử dụng đi anh còn dầu mà, em có phần của em rồi, anh cất đi để đến những địa bàn đống quân không có dân lở hết dầu làm sau mà mua.
Thúy mở ba lô tôi bỏ dầu và khăn vào cột lại nói: Anh qua bên ấy đừng thức khuya làm việc nhiều bệnh không ai lo. Thôi em đi theo tiểu đoàn cho kịp, để Lan và Oanh chờ.
Tiểu đoàn hành quân về hướng thị trấn Mỏ Cày. Tôi nghỉ, giờ G nổ súng đã đến gần, mình phải cấp tốc xuống Trạm giao liên để kịp vượt Hàm Luông đêm nay.
Thúy và đoàn quân khuất dần trong bóng đêm, còn lại một mình tôi lặng lẽ bước đi những bước nặng nề trong đêm khuya không một bóng người, chỉ có những chòm sao rọi xuống những tia sáng yếu ớt xuyên qua cành cây, kẽ lá không đũ soi sáng những bước chân.
Càng về khuya khung cảnh càng vắng lặng, bóng tối phũ trùm lối đi, cãm giác rợn người. Bờ kênh Tư Khù trãi dài trên cánh đồng nối liền giửa An Định và Tân Trung cứ ngở dài thêm, làm mõi gối người lử khách.
Không đêm nào tôi thấy trống vắng, quạnh hiu như đêm nay, càng về khuya sương càng thắm ướt đôi vai, cái se se lạnh làm xao động lòng người, chiếc đồng hồ đeo trên tay đã nhích sang con số 1,
Ủa ! đã 1 giờ đêm rồi ư, thời gian sao trôi nhanh quá, dườn như màng đêm mới vừa buông xuống , mà bây giờ đã sang ngày mới.
Con đường từ An Định, xuống đến vàm Tân Tập nếu có đi nhanh cũng mất hơn một tiếng. Không biết vào chiến dịch, trạm có đưa khách sang sông liên tục không ?.
Nhiều câu hỏi cứ nhãy múa trong đầu, không có lời giải.
Phải chi mình đừng ghé tiểu đoàn chắc giờ nầy đã đến BCH Tiền phương rồi.
Nhưng nếu không ghé tiểu đoàn làm sao có phút giây ngắn ngủi gặp thầy và các bạn cùng lớp.
Đâu biết Thúy, Lan Oanh, Sơn...cũng lên đường đi chiến dịch.
Nếu đêm nay là đêm BCH chiến dịch ấn định là giờ G nổ súng, chắc mình lở hẹn với chiến dịch nầy rồi. Nhưng không biết BCH Tiền phương giờ ở đâu mà tìm, những băn khoăn ấy cứ đeo đuổi trong tôi chưa có câu trả lời.
Chợt có bóng người trước mặt rọi đèn Pin hỏi: Ai đó ?
Dạ tôi là khách đến trạm để liên hệ qua sông.
Đồng chí ở đợn vị nào?
Dạ tôi ở B 2 của Tỉnh đội.
Người rọi đèn pin thẵng vào mặt tôi nói: Trời ơi mầy mà tao kể ai, sao đi trể vậy em, hồi tối tới bây giờ đã đi ba chuyến rồi, bây giờ còn chuyến chót nghe em. Đi liền hay ở lại mai đi.
Anh em lâu gặp quá ở lại ngũ với trạm sáng mai làm mấy xị rồi đêm mai đi cũng đâu có muộn.
Không được anh Ba ơi, Ban chỉ huy Tiền phương kêu qua liền.
Nói chơi với chú em mầy chớ, tụi tao cũng được lệnh tăng cường mấy đứa cho cánh Tiền phương thời gian đâu mà nhậu. Hẹn chú em mầy qua chiến dịch ghé trạm tụi tao đãi cho một chầu cho đã.
Tôi quen anh Ba, lúc Trạm giao Bưu tỉnh T825 dóng quân ở gần nhà tôi. Ngày nào đưa hết khách qua sông, anh thường rủ tôi ra sông Hàm Luông câu cá Chốt, cá Út, câu Tôm. Còn bửa nào nước sác anh rủ tôi đi chài.
Anh xem tôi như đứa em của mình, anh thường bảo khi nào học thấy chán đi theo đơn vị tao, tao giao mày đi thơ từ đơn vị mình xuống Trạm T200(giao liên huyện Mỏ Cày), hoặc qua Trạm T826 ở Giồng Trôm, lớn một chút nửa tao cho học lái ghe chở khách vượt Hàm Luông như tụi tao bây giờ.
Anh Ba có tên thường dùng là Vân Thanh, nhưng đồng đội thường gọi anh là Ba Thanh.
Anh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cha anh là cán bộ xã hoạt động bí mật thời 6 năm chính trị, bị do thám chỉ điểm nên bọn chúng truy lùng bắn chết dưới hầm Bí Mật năm 1956 lúc anh vừa tròn 10 tuổi.
Sáu năm sau đó, anh thoát ly gia đình theo kháng chiến, dù mẹ anh không muốn cho con mình theo kháng chiến trong khi tuổi còn quá nhỏ. Nhưng anh trốn gia đình cương quyết ra đi để trả thù cha.
Ngày tôi lên đường, anh có sang nhà tôi để tiển tôi đi anh nói: Thằng em mầy không chịu ở đơn vị tao công tác, mà theo bộ đội đánh giặc thì gian khổ hơn nghe em. Nhưng ra đi thì phải có chí, dù gian khổ, hy sinh củng phải thể hiện khí phách của mình can đảm chịu đựng, quyết không lùi bước nghe em.
Hôm nay, gặp lại anh nhắc những lời dặn dò của anh trước lúc tôi đi và anh nói: Bửa nay anh thấy một mình em lặn lội xuống Trạm trong lúc nửa đêm là cũng gan lắm rồi, bộ hết sợ ma rồi hở em.
Nói thiệt với anh, từ khi em vào bộ đội đến nay em đi đêm một mình từ đơn vị nầy, đến đơn vị khác là chuyện thường ngày, bây giờ bom đạn giặc Mỹ mình còn không sợ, huống gì sợ ma.
Ngoài bến có người vào gọi, tất cả khách sang Bão chuẩn bị xuống ghe. Anh nói: Thôi anh em mình chia tay nghe, đi mạnh giõi nghe mậy mai mốt gặp lại anh em mình làm mấy xị không muộn.
Ủa đêm nay anh không lái ghe à!.
Đêm nay Hửu Phước lái, anh làm nhiệm vụ tiếp nhận khách.
Khách xuống ghe xong, anh Hũu Phước sinh hoạt cách xử lý các tình huống khi gặp phải lúc qua sông, không quên phát mỗi người một cây dầm và chỉ cách bơi.
Có anh khách không biết ở đơn vị nào nói nhỏ vào tai tôi: Bộ tình hình căng lắm sao mà mấy ổng sinh hoạt nghe ớn xương sống. Tôi nói:
Người ta sau mình vậy anh ơi, có gì đâu mà ớn, hồi nảy anh Ba Thanh nói: Hổm rài mình đụng với tàu và bo bo mấy chuyến rồi, nhưng an toàn không có ai hy sinh.
Ghe mới ra cách bờ khoản 100 mét, gặp sóng đánh mấy lượn nước tràn vào ướt từ đầu đến chân. Anh Hữu Phước nói: Các anh cứ bình tỉnh ráng phụ bơi, tháng nầy gió chướng thổi mạnh, sóng lớn lắm nhưng không sao đâu, ghe mình đi ngược sóng mà.
Anh nói tiếp: Tội nghiệp mấy anh ở Trạm nầy vất vã quá, vừa phải đối phó với tàu, bo bo địch, vừa phải đối phó với gió to, sóng dử. Mình lâu lâu mới qua sông một chuyến cãm giác như người mất hồn
Còn các anh đêm nào cũng đưa khách sang sông.
Nhưng anh nào anh nấy đều tĩnh queo, nhìn các anh mình cãm thấy yên tâm.
Ghe chúng tôi vượt qua gần hai phần ba con sông, sóng đã bớt cơn thịnh nộ. Anh khách ngồi bên tôi thở phào nói: Ráng bơi mạnh lên anh cho tới bờ sớm.
Anh Hữu Phước nói: Phía trước có tàu địch xuất hiện bơi mạnh lên, khi ghe cặp bến, cũng là lúc tàu địch áp sát vào bờ và bắn pháo sáng.
Anh Hữu Phước ra lệnh: Tất cả nằm xuống, cũng là lúc tàu địch bắn thẳng vào hướng ghe chúng tôi chui vào rạch khuất sau đám lá.
Ở phía trước mũi ghe có người nói: Tôi bị thương rồi các đồng chí ơi.
Anh Hữu Phước nói: Có đồng chí nào có mang theo băng cá nhân không ?
Dạ có!
Anh đem lên trước mũi ghe cho tôi băng đồng chí đang bị thương. Băng xong anh nói: Ráng một chút ghe tới bến tôi chuyển anh lên bờ.
Nhưng tàu địch vẩn bắn xối xã vào hướng ghe chúng tôi đạn bay đỏ trời.
Theo lệnh anh Hữu Phước chúng tôi rời ghe leo lên bờ chui xuống dãi Công Sự mà trạm đã đào sẳn trước đó.
Khi tiếng súng đã dứt, anh Hữu Phước nói: Các anh theo tôi ra bến để chuẩn bị vượt sông sang Thạnh Phú Đông.
Vì chúng phát hiện ta, sáng mai thế nào chúng cũng đổ quân truy tìm.
Anh gọi các đồng chí đón chúng tôi ở trạm đem võng khiêng đồng chí bị thương đi trước, chúng tôi đi theo sau.
Anh bạn ngồi gần tôi ở dưới ghe khi vượt Hàm Luông hỏi: Ủa qua sông nào nửa anh: Hiện nay mình đang ở Cồn Linh, chớ đâu phải ở trong đất liền đâu, bộ hồi nào tới giờ anh chưa qua trạm nầy sao?
Dạ chưa.
Anh Hữu Phước đứng trước mũi ghe kiểm tra xem quân số đủ không và anh nói: Bây giờ chúng ta vượt sông bằng ghe máy, các đồng chí khỏi phải bơi nhưng tất cả phải sẳn sàng chiến đấu khi gặp tàu địch.
Ghe chạy được hơn nửa sông xuất hiện 2 chiếc tàu địch rượt theo bắn pháo sáng và nã súng thẳng vào ghe. Do đoạn sông từ Cồn Linh qua Thạnh Phú Đông hẹp, có sự chi viện bắn trả của tổ vũ trang trên bờ và anh em dưới ghe nên hai chiếc tàu địch không dám tiến đến gần, ghe vào bến an toàn.
Khi chúng tôi lên bờ, cũng là lúc pháo địch bắn xối xã vào địa hình đóng quân của trạm. Vừa dứt pháo, anh Hữu Phước hỏi: Đồng chí nào tự lực đi trước, các đồng chí còn lại theo tôi.
Do quen địa bàn tôi tranh thủ đi một mạch về ấp 2 xã Phước Long, huyện Giồng Trôm chổ đơn vị đóng quân cũ xem đơn vị có cử người ở lại đón tôi không.
Đúng như dự đoán của tôi, BCH tiền phương cử người của B 4 ở lại đón không phải một mình tôi mà có nhiều đồng chí ở các đơn vị khác củng tập trung ở đây, nhưng có tôi là người đến sau cùng.
Vừa bước vào nhà đóng quân của B 4 gặp chú Năm Ngợi người của B 4, nhưng đồng hương với tôi chú hỏi: Anh ở đơn vị nào?.
Dạ B 2.
Ủa đi bộ đội hồi nào tôi không hay ông.
Tôi đi hồi đầu năm ngoái, thôi đến chổ mới anh em tâm sự sau, bây giờ chuẩn bị hành quân.
Rồi chú ra lệnh: Tất cả các đồng chí không phân biệt đơn vị tập họp chuẩn bị hành quân. Chú điểm sơ bộ về tình hình ta, địch và địa điểm đến đóng quân, tôi nhìn đồng hồ đã chỉ 6 giờ.
Lội bộ cả ngày trời mới đến chổ đóng quân của BCH Tiền phương, vừa mới đến gặp chú Tám Phục (sau nầy chú làm Trưởng ban quân báo) nói: Sau đồng chí đến trể dữ vậy, qua tổ máy 9 ăn cơm với tụi nó rồi chuẩn bị hành quân.
Tôi có cãm giác đôi chân đã rã rời, bụng đói lả nhưng không muốn ăn chỉ thèm ngũ, nhưng lại hành quân nữa làm sao ngũ được.
Anh Bảy nói: Ăn lẹ lên rồi hành quân ông, tao thấy mầy bèo nhèo quá vậy.
Anh nghỉ coi thức cả đêm rồi đi xuống trạm qua 2 con sông gặp tàu địch bắn kể bỏ xác dưới sông, lên được trên bờ là đi tới bây giờ luôn.
Anh nói: Nghe đâu, đêm nay đánh vào thị xã tụi mình thức trắng đến hết cao điểm một, rồi mầy than với ai.
Vừa mới ăn được hơn nửa chén cơm, Thắng chạy qua nói: Có lệnh hành quân nghe, rồi chạy về tổ máy 5 chuẩn bị hành lý.
Anh Bảy xách cái máy 9 đến giao tôi nói: Ban giao mầy sử dụng cái máy nầy.
Máy nầy tốt không anh.
Nhận tín hiệu tốt, mà còn nghe thoại được.
Tôi mở thử cong tắt, nghe nó chạy êm quá nói: Máy nầy ngon à anh Bảy ơi.
Ban trang bị máy tốt để đi chiến trường, máy ộp ẹp làm sau phục vụ chiến dịch được.
Chúng tôi hành quân đến chổ tập kết đã quá nữa đêm mùng 1 rạng mùng 2 al. Anh Bảy nói: Chỉ huy ra lệnh, mình đóng quân tại đây, mầy căng ăng ten đi để làm việc, tao phân công tụi nó theo dỏi Tiểu khu và các Chi khu rồi, mầy theo dõi thằng Sư đoàn 4 không quân, nắm xem Mỹ có thông báo tin tức gì mới cho vùng 4 chiến thuật không.
Tôi vừa mở máy rà sóng thằng Sư đoàn 4 không quân, khoản 10 phút sau nó Thông báo cho Tiểu khu Kiến Hòa“ Việt cộng tràn ngập Thị xã Buôn Mê Thuộc, các nơi phải đề phòng”;
Tôi báo cáo với anh Bảy nội dung tin nầy, anh Bảy nói: Kỳ nầy ta đánh lớn khắp Miền Nam, đánh đòn quyết định, một chút nữa ta nổ súng tấn công vào thị xã, ráng thức đừng ngủ nghe mậy, ngủ là chết à.
Tôi định mắc võng nằm, nhưng nghe anh Bảy dặn, tự nhiên thấy hết buồn ngũ, nên ngồi nhận điện
Tiểu khu Kiến Hòa điện khẩn cho vùng 4: Việt cộng đã tấn công vào thị xã và các thị trận, xin cho Oanh kích mấy phi vụ để giải tỏa thị xã. Nhưng vùng 4 trả lời: Các phi hành đoàn đã cất cánh hết, chưa chi viện được cho Kiến Hòa.
Từ khi ta nổ súng, lúc đầu địch có hoảng loạn, nhưng sau đó chúng cùng cố lại đội hình phản kích lại quyết liệt. Do có sự yểm trợ của hỏa lực và bộ binh Mỹ, nên giữa ta và địch giành với nhau từng tất đất trên địa bàn thị xã.
Sau các cao điểm tổng công kích năm 1968, Mỹ ngụy tăng cường hoạt động tình báo, chỉ điểm, do thám cho phi cơ, pháo binh bắn phá nhiều nơi ở vùng ven hết sức ác liệt. Ngoài ra, chúng còn dùng cả máy “ điện tử” để thu tiếng động cho phi cơ pháo binh phát hiện những nơi tập trung nhiều người để bắn phá, tập kích hỏa lực.
Để đối phó pháo binh địch, gây nhiều tổn thất cho lực lượng ta, quân báo phân công 1 bộ phận chuyên trách theo dỏi tiểu đoàn 72 pháo binh và pháo binh của các chi khu, phát hiện kịp thời, chính xác tọa độ pháo kích của chúng mà thông báo để hạn chế thiệt hại.
Quân báo không chỉ nắm tin phục vụ để ta đánh địch trên mặt trận quân sự, mà phục cho việc bảo vệ an toàn lãnh đạo tỉnh ủy,các cơ quan, ban ngành tỉnh, nhân dân trong vùng giải phóng, nên được nhân dân và các cơ quan, ban ngành tin yêu. Do đó, bọn tình báo, gián điệp đánh hơi được là lực lượng vũ trang ta có “ bộ phận theo dõi nghe lén truyền tin”, nên chúng rất cảnh giác trong truyền tin, độ mật cao, thay đổi mã khóa và không chuyển kế hoạch tác chiến trên sóng.
Tuy nhiên, ta đã khắc phục mọi khó khăn, ngoài nắm địch bằng nguồn tin của P20, ta còn phối họp với các phương thức nắm địch khác. Song trong thời điểm đó, địch dùng bom, pháo chà xác vùng ven; vùng giải phóng rất ác liệt, quần chúng không còn bám trụ, bà con phần lớn ra vùng địch, rất ít về vùng giải phóng nên phong trào quân báo nhân dân gần như bế tắc; về đặc tình điệp báo nắm địch chủ yếu những tin có tính chất chiến lược, không phục vụ kịp thời những tin tức hoạt động hàng ngày của địch. Các cơ sở vị trí vẩn bám chắc các cơ quan quân địch phục vụ cho trinh sát vũ trang nghiên cứu sâu trong, Thị trấn, Thị xã các cơ quan quân sự đầu nảo của chúng.
Trước tình hình đó, Ban cử tôi và anh Bảy về khu học tập kinh nghiệm khai thác Bản Mã ANK của địch, trên đường về khu tôi gặp đoàn học sinh được tỉnh cử ra miền bắc tiếp tục học tập văn hóa, nhưng chỉ gặp được Lan và Oanh, trên đường đi, nên chỉ kịp chào nhau, còn Thúy và các bạn khác đã đi trước đó một chuyến….
Thắm thoát mà đã 57 năm trôi qua, lớp học ngày xưa bây giờ kẻ còn người mất nhưng ký ức về mùa xuân 1968 vẩn còn đọng mãi trong tôi.